Công tác xã hội được biết đến như là một hoạt động giúp đỡ cá nhân, nhóm, cộng đồng  (gọi chung là thân chủ) giải quyết các vấn đề thông qua những kiến thức và kỹ năng chuyên môn của Công tác xã hội, huy động sự tham gia của thân chủ, nguồn lực cộng đồng, những chính sách để hỗ trợ giúp thân chủ phát huy tối đa khả năng tự giải quyết vấn đề của bản thân.

Xuất phát điểm của Công tác xã hội là từ những hoạt động từ thiện thuần túy ở các nước Mỹ, Anh, Ấn Độ. Với sự gia tăng về nhu cầu, sự phát triển nhanh chóng của xã hội về kinh tế, đã dẫn đến một thách thức buộc những cách giúp đỡ từ thiện này phải thay đổi vì nguồn lực xã hội có hạn và làm thế nào để giúp những người được giúp đỡ thay đổi tích cực, phát triển toàn diện và bền vững.

Vậy giữa Công tác xã hội và từ thiện có mối liên hệ như thế nào đối với việc hỗ trợ và giúp đỡ những nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội (trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo, người khuyết tật, phụ nữ bị bạo hành, nhóm LGBT, v.v…)? Những đặc điểm cơ bản giữa từ thiện và công tác xã hội khác nhau như thế nào? Nội dung so sánh dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về hoạt động từ thiện và hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp.

Hoạt động từ thiện, cứu trợ

Được ví như hành động cho con cá 

Công tác xã hội chuyên nghiệp

Được ví như hành động cho cần câu, hướng dẫn có sự tham gia

Mục đích Giúp đỡ người hoạn nạn, khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Giúp đỡ người hoạn nạn, khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Động cơ – Lòng thương người

– Thiện tâm, thiện chí

– Tôn giáo (để đức cho con, cứu rỗi linh hồn…)

– Cá nhân: thỏa mãn nhu cầu tâm lý (tự khẳng định, tự bù đắp…)

– Tạo uy tín cho tập thể, cho cá nhân.

– Lòng thương người

– Thiện tâm, thiện chí

– Điểm khác: Xem đối tượng và lợi ích của đối tượng là mối quan tâm hàng đầu.

Phương pháp – Vận động dự đóng góp của người khác

– Phân phối vật chất quyên góp được hay hàng hóa viện trợ đến đối tượng

– Mang hình thức ban bố

– Làm cho đối tượng có vấn đề phát huy tiềm năng của chính mình để tự vươn lên, đóng góp cho xã hội.

– Bằng các phương pháp khoa học xã hội dựa trên kiến thức và kỹ năng chuyên môn để giúp người “tự giúp”.

Mối quan hệ giữa người giúp đỡ và người được giúp đỡ – Nhất thời, có khi không có mối quan hệ nào

– Từ trên xuống

– Thái độ ban ơn, kẻ cả

– Là mối quan hệ nghề nghiệp

– Mang tính chất bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau

Người giúp đỡ – Chủ động

– Quyết định

– Áp đặt

– Làm thay

-Tìm hiểu nhu cầu, tôn trọng sự tự quyết của đối tượng, “làm với”,gây ý thức, khuyến khích sự tham gia
Người được giúp đỡ – Thụ động – Chủ động tham gia giải quyết vấn đề của chính mình
Kết quả -Vấn đề thật không được giải quyết, chỉ xoa dịu tạm thời.

-Đối tượng có thể trở thành ỷ lại, đòi hỏi, chờ đợi.

-Vấn đề được giải quyết, đối tượng được giúp đỡ khắc phục khó khăn, vươn lên tự lực.

Qua so sánh trên chúng ta thấy được “CTXH là hoạt động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao hay khôi phục tiềm năng của họ, để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ“[1]

Chúng ta có nhiều lựa chọn để giúp đỡ người khác, và chúng ta đều mong muốn sau những giúp đỡ của mình sẽ giúp cho họ có thêm sức mạnh, chủ động hơn để giải quyết các vấn đề và sự phát triển của cá nhân.

Tài liệu tham khảo:

[1] Charles H. Zastrow, Introduction to Social Work and Social Welfare: Empowering People, Cengage Learning

[2] Ths.Nguyễn Thị Ngọc Bích, Tài liệu giới thiệu nghề Công Tác xã hội do CFSI tài trợ, 07/2012